Thuyết minh về hồ Gươm – Bài số 1
Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ưu đãi có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Ở mỗi nơi đều có những danh lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng. Một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm. Bất kì ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ Gươm.
Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật, mặt nước hồ màu xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm. Đó là một danh lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội. Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngoài vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng mà Hồ Gươm còn là di tích lịch sử gắn liền với lịch sử đấu tranh anh hùng bất khuất của đất nước ta.
Khi thuyết minh về danh lam thắng cảnh này ta không thể không nhắc đến lịch sử hình thành và tồn tại của hồ. Hồ Gươm đã hình thành từ rất lâu đời, cách đây khoảng 6 thế kỉ,hiện nay hồ gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào qua Hai Bà Trung, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên Hồ Gươm còn gọi được gọi với cái tên Hồ Lục Thủy.
Vào thế kỉ XV, Hồ Gươm được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện ấy gắn liền với truyền thống trả gươm thần cho rùa vàng của vị vua khai triều nhà hậu Lê người anh hùng của khởi nghĩa Lam Sơn chống lại giặc Minh. Truyền thuyết kể rằng, thờ giặc minh đô hộ nước ta chúng rất hung ác gây ra nhiều tội với nhân dân ta làm cho nhân dân ta làm cho dân ta sống trong cảnh khổ cực. Khi Lê Lợi (tức vua Lê Thái Tổ) dựng cở khởi nghĩa của Lam Sơn, có một ngư dân mò được một lưỡi gươm sau đó chính ông nhặt đươc một cái chuôi ở trong rừng. Khi lưỡi gắn vào chuôi gươm thì thân gươm ánh lên. Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi dạo thuyền trên Hồ Lục Thủy bỗng một con rùa xuất hiện. Rùa vươn đầu cất tiếng nói “Xin bệ hạ hãy hoàn lại gươm cho Lang quân” Lê Thái Tổ hiểu ra sự việc bèn rút gươm khỏi vỏ, vừa giơ gươm ra thì gươm liền bay về phía rùa thần. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ và từ đó Hồ Lục Thủy có tên gọi mới là Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm. Chính truyền thuyết đặc sắc này đã khẳng định tấm lòng yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh của người dân Thăng Long Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Rùa là một trong bốn con vật linh thiêng trong tâm thức văn hóa dân gian. Giống rùa quý nay vẫn còn sinh sống trong lòng hồ, hàng năm có đôi lần nhô lên mặt nước, thật may mắn cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi trên mặt hồ.
Có hai lần hòn đảo trên hồ là đảo Ngọc và đảo rùa. Đầu thế kỷ 19 người ta đã xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc và gọi là Chùa Ngọc Sơn. Không lâu sau đó chùa Ngọc Sơn không thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thần Văn Xương Đế Quân nên đền Ngọc Sơn.
Chúng ta sẽ được tận hưởng những không gian cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp. Trong Hồ Hoàn Kiếm có cầu Thê Húc dẫn vào đền Ngọc Sơn. Cầu Thê Húc được thiết kế cong cong hình vòng cung, trông rất đẹp mắt, là lối duy nhất đưa du khách vào đền Ngọc Sơn.
Khi thuyết minh về danh lam thắng cảnh này, ta quên hình ảnh rặng liễu, những hàng lộc vừng thướt tha, rủ bóng quanh mặt hồ. Xung quanh bờ hồ được trồng rất nhiều loài hoa, cây cảnh làm sáng rực lên một danh lam thắng cảnh của Hà Nội. Hình ảnh Hồ Gươm lung linh như một tấm gương xinh đẹp giữa lòng thành phố đã đi vào lòng người dân Hà Nội bao đời nay. Người dân Hà Nội sống xung quanh khu vực hồ thường có thói quen đi tập thể dục vào buổi sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Từ người già đến trẻ nhỏ đều thích ngồi trên ghế đá quanh hồ để ngắm vẻ đẹp của Hồ Gươm. Tiếng chim hỏi líu lo mặt hồ xanh biếc, cảnh vật thật đẹp không chỉ đắm chìm trong hơi thở mà thiên nhiên quan hồ rất thơ mộng. Đến Hồ Gươm ta nhìn thấy những cắp tình nhân tay trong tay đi dạo phố, họ đều tận hưởng cảnh đẹp của Hồ Gươm theo cách riêng của họ, những hoạt động đó làm cho Hồ Gươm trở nên tấp nập và sinh động hơn.
Không phải là hồ nước lớn nhất thủ đô song với nguồn gốc đặc biệt, Hồ Gươm từ lâu đã gắn liền với cuộc sống, tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ kính, Hồ đã mở ra một khoảng không gian đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có những cảnh đẹp và hơn thế hồ gắn liền với huyền sử là biểu tượng khát khao hòa bình.
Không thể dùng từ gì để thuyết minh về danh lam thắng cảnh Hồ Gươm để có thể miêu tả hết vẻ đẹp của hồ. Hồ Gươm là nơi hội tụ, điểm hẹn của du khách bốn mùa. Mùa xuân đậm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa. Mùa hạ ùa về từng cơn gió lồng lộng, thổi đi cái oi bức của phố phường, đâu đó trên những cành cây râm ran tiếng ve gọi hè. Mùa thu với màn sương huyền ảo, dáng liễu mơ hồ hư thực đã làm say đắm bao nhà nhiếp ảnh tài hoa. Mùa đông đi giữa những cơn mưa lá vàng chân nhẹ bước trên những thảm lá vừa rụng, xuýt soa với cái rét và những giọt mưa phùn lất phất bay.
Hồ Gươm không chỉ mang những nét đẹp cổ kính mà còn mang nét đẹp hiện đại, là danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước ta. Trải qua bao chặng đường lịch sử phát triển của đất nước, Hồ Gươm vẫn đẹp, vẫn thơ mộng và trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước. Mùa nào tính ấy, Hồ Gươm mãi là dấu ấn vẻ vang thời giữ nước và khát vọng hòa bình của tổ tiên xa xưa.
Thuyết minh về hồ Gươm – Bài số 2
Hà Nội – thủ đô văn minh của nước ta không chỉ có những món ăn ngon, những phong cảnh đẹp, những con người thanh lịch mà còn có những danh lam thắng cảnh, những khu di tích lịch sử nổi tiếng. Một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất, có nhiều du khách tham quan nhất chính là Hồ Gươm. Hồ Gươm mang nhiều nét đặc sắc và riêng biệt của riêng mình, không những thế, nó còn mang những ý nghĩa sâu sắc, giàu giá trị. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành một trong những địa điểm nổi tiếng ở Hà Nội. Nếu đã đến Hà Nội, bạn phải đến Hồ Gươm, là một công dân Việt Nam nói chung và là một người dân Hà Nội nói riêng, em rất tự hào và yêu thích hồ gươm.
Hồ Gươm không chỉ là danh lam thắng cảnh đẹp mà còn là di tích lịch sử của nước ta. Trước hết. tên hồ được gắn với truyền thuyết trả gươm của Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn cùng thần Kim Quy đã giúp ta đánh đuổi và thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh xâm lược, sự tích trả gươm cho rùa thần của Lê Lợi đã làm nên cái tên "Hồ Gươm" hay còn được gọi là hồ Hoàn Kiếm. Ngày nay mọi người thường gọi thay cho cái tên "Hồ Thủy Lục" ngày xưa. Trên hồ có hai đảo nhỏ: đảo Ngọc và đảo rùa. Đầu thế kỉ XIX, người ta dựng một ngôi đền trên đảo Ngọc và gọi là đền Ngọc Sơn thờ thánh Văn Sâm và Trần Hưng Đạo. Năm 1864, trên gò Ngọc Bội đối diện với đảo Ngọc, Tháp Bút được xây dựng.
Hồ Gươm nằm ở nơi trung tâm Hà Nội, với diện tích khoảng 12 héc-ta, chiều dài Nam – Bắc, chiều rộng Đông – Tây là 200 mét. Hồ là một nhánh của sông Hồng, là hồ nước ngọt lớn nhất Hà Nội. Hồ Gươm có vị trí kết nối giữa các khu phố cổ gồm các phố như Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can,…với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỉ là Bảo Khánh, Tràng Thi, Nhà Thờ,…
Bên cạnh đó, hồ Hoàn Kiếm còn gắn liền với các công trình kiến trúc như Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc. Tháp Rùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ XIX, từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886, nằm ở trung tâm hồ, trên gò Rùa ( Quy Sơn ). Tháp chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Có thể thấy tháp có ba tầng và một đỉnh có nét như một vọng lâu vuông vức. Hai tầng dưới có kiến trúc giống nhau, gồm nhiều ô cửa hình vòm. Chiều dài có ba cửa, chiều rộng hai cửa. Tần ba chỉ có một của hình vòm. Hồ có đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc, xưa có tên là Tượng Nhĩ, là mà tai voi. Sau này, được Lý Thái Tổ đổi tên thành Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng Long và đến đời Trần gọi là đền Ngọc Sơn. Dẫn vào đền là một công trình kiến trúc độc đáo khác, chính là cây cầu cong màu đỏ rực, đó là cầu Thê Húc.- nghĩa là nơi đậu ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm. Cầu do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Ngoài những công trình trên, hồ còn có Tháp Bút, Đài Nghiên,… Vì vậy cũng có thể hiểu lí do hồ Hoàn Kiếm lại trở thành địa điểm du lịch ấn tượng, thu hút nhiều khách du lịch, là nơi những người Hà Nội xa quê nhớ về và là nguồn cảm hứng của nghệ thuật bất tận của những thi nhân, nhạc sĩ, văn nghệ sĩ. Hơn thế nữa, hồ còn gắn liền với lịch sử một thời, là biếu tượng khát vọng hòa bình của toàn dân tộc.
Hồ Gươm là một quần thể di tích đáng trân trọng và bảo tồn nguyên vẹn. Ngày nay, cứ mỗi khi mặt trời lên tỏa ánh sáng lấp lánh xuống hồ, hồ Gươm trông thật là đẹp, từng làn sóng trôi dập dềnh được ánh nắng như được dát vàng. Còn khi hoàng hôn dần buông xuống, hồ lại có vẻ kiêu sa, cổ kính, hàng liễu bên hồ rũ xuống như những thiếu nữ đang soi gương, chải tóc. Vào mỗi buổi chiều, có rất nhiều người dân chạy và đi bộ quanh hồ để tìm sự yên tĩnh, hít thở không khí trong lành và cảm nhận được cái đẹp của hồ. Chúng ta có thể thấy rằng, sự ngự trị tinh thần của hồ Gươm vẫn không ngừng được khắc sâu vào lịch sử trong thành phố này. Nó vừa có ý nghĩa vật chất, vừa có ý nghĩa tinh thần, không ngừng tạo nguồn cảm hứng dồi dào và phát triển. Được xem là một trong những điểm tựa tinh thần hiếm hoi của người dân thành phố, hồ Gươm là nơi mà người ta vừa sống một cuộc sống hiện đại, vừa có thể nhìn về quá khứ và hướng tới tương lai.
Nếu như các đô thị hiện đại ở phương Tây, những điểm nút đô thị được hình thành nên từ những công trình trọc trời hay là nơi tụ hội của cách mạng trước xã hội, những yếu tố dễ dàng xác định thì ngược lại, ở Hà Nội những điểm nút đó lại được hình thành nên từ những nét ngang không thể cảm nhận, từ những cái hồ mang đầy yếu tố lịch sử, mang đậm nét duyên dáng cần được bảo vệ, tuy nó không bộc lộ phô trương mà rất tinh tế, kín đáo gần như không thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận từ chính tâm hồn của mình. Đây chính là một lí do quan trọng nhất để biến hồ Gươm thành nơi tham quan nổi tiếng ở Việt Nam. Là tấm gương phản chiếu tinh tế, Hồ Gươm là một khu di tích mang đậm ý nghĩa lịch sử trong quá trình dựng nước và giữ nước của ôn cha ta. Là một người dân của thủ đô Hà Nội, em vô cùng tự hào về những danh lam thắng cảnh của nơi mình ở, đặc biệt là Hồ Gươm.
Những người biết lắng nghe sẽ thấy hồ Gươm cũng như các hồ khác ở Hà Nội vẫn không ngừng thốt lên những thông điệp sâu thẳm: "Chúng tôi là bộ khung của thành phố này, chúng tôi là cơ thể của thành phố này, chúng tôi là những cánh của đến với những biểu tượng, chúng tôi là những tấm gương phản chiếu tinh thần Hà Nội mà mọi người đều cảm nhận được nhưng không phải bao giờ cũng phô trương mà tinh tế và văn minh".
Là một học sinh của Hà Nội, một người dân của Hà Nội, em không chỉ cảm thấy tự hào mà còn vô cùng yêu thích hồ Gươm. Chúng ta, những người dân văn minh của Hà Nội cần phải phát huy vẻ đẹp của hồ Gươm nói riêng và tất cả những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử ở Hà Nội nói chung, bên cạnh đó, ta còn phải giữ gìn, trân trọng và bảo tồn vẻ đẹp ấy vì một thủ đô văn minh – thanh lịch. Một đất nước phồn vinh, hưng thịnh. Mỗi con người chúng ta cần phải biết bảo vệ và giữ gìn những di tích lịch sử mang đậm giá trị sâu sắc. Qua đó, em cũng có thể thấy rằng hò Gươm không chỉ đẹp, mang nhiều công trình kiến trúc đặc sắc mà còn là di tích mang đậm ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa, tinh thần của thủ đô Hà Nội.
Thuyết minh về hồ Gươm – Bài số 3
“Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao."
Cứ nhắc đến Hà Nội là nhắc đến hình ảnh hồ Hoàn Kiếm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng nghiêng soi dáng. Hồ Hoàn Kiếm cùng quần thể kiến trúc của nó đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ và thiêng liêng về Hà Nội – trái tim hồng của cả nước. Hồ Hoàn Kiếm đã tồn tại từ trước nay rất lâu, nếu tính từ khi hồ còn là một đoạn của dòng cũ sông Hồng để lại sau khi sông chuyển dòng thì tới nay hồ đã có đến vài nghìn tuổi. Theo những địa danh hiện nay, hồ Hoàn Kiếm gồm 2 phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý
Thường Kiệt tới phố Hàng
Chuối, thông với sông Hồng.
Tuy rằng hồ có từ rất lâu nhưng cái tên Hoàn Kiếm thì mới có từ năm thế kỉ nay. Trước đây, nước hồ quanh năm xanh biếc nên nó được gọi là Lục Thủy.Vào thế kỷ XV, hồ được mới được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện ấy gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của vua Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người mò được một lưỡi gươm sắc bén, sau đó chính ông nhặt được chuôi gươm trong rừng. Khi Lê Lợi lấy lưỡi gắn vào chuôi gươm thì thân gươm ánh lên hai chữ "Thuận Thiên" ( nghĩa là: thuận theo ý trời ). Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua và về Thăng Long. Trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, bỗng một con rùa xuất hiện, nhà vua rút gươm ra trỏ thì rùa liền đớp ngay thanh gươm rồi lặn xuống nước, vậy là vua đã trả gươm cho trời. Và từ đó hồ Lục Thủy có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm, thường được gọi nôm na là Hồ Gươm. Sau đó, cũng vào thời nhà Lê, hồ còn được dùng làm nơi luyện tập của thủy quân nên có lúc được gọi là hồ Thủy Quân.
Hiện nay, Hồ Hoàn Kiếm có diện tích khoảng 12 Ha, chiều dài Nam-Bắc là 700m, chiều rộng Đông-Tây là 200m. Bao quanh hồ là các phố Lê Thái Tổ ở phía Tây, phố Đinh Tiên Hoàng phía Đông, phố Hàng Khay phía Nam. Ở giữa hồ có một gò đất gọi là gò Rùa. Gò hình gần tròn, có đường kính chiều đông-tây 18m, chiều bắc-nam 24m, diện tích khoảng 350m2. Tháp Rùa được xây trên gò rùa nơi xưa vua Lê Thánh Tông đã dựng Điếu Đài để nhà vua ra câu cá. Tháp hình chữ nhật, gồm 3 tầng. Tầng một: chiều dài 6,28 mét (của 2 mặt hướng Đông và Tây), mỗi mặt có 3 cửa, chiều rộng 4,54 mét, mỗi mặt có 2 cửa. Các cửa đều được xây cuốn, đỉnh thuôn nhọn. Tầng hai: chiều dài 4,8 mét, rộng 3,64 mét và có kiến trúc giốngnhư tầng một. Tầng ba: chiều dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét. Tầng này chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68 mét, phía trên cửa có 3 chữ Quy Sơn tháp (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Đảo Ngọc Sơn: nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi).Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng Long và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là Ngọc Sơn. Đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương và Trần Hưng Đạo. Năm Tự Đức thứ 18 (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền Ngọc Sơn. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm".
Hình ảnh hồ Gươm lung linh giống như một tấm gương xinh đẹp giữa lòng thành phố Hà Nội đã đi vào lòng bất cứ ai đặt chân đến đây. Người dân Hà Nội sống ở khu vực quanh hồ có thói quen ra đây tập thể dục vào buổi sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Mọi người thường gọi các khu phố quanh hồ là Bờ Hồ. Tuy rằng hồ không phải là hồ nước lớn nhất trong Thủ Đô Hà Nội, song với nguồn góc đặc biệt, lại nằm trong trung tâm thành phố, giữa những dãy phố cổ, hồ Hoàn
Kiếm từ lâu đã gắn liền với cuộc sống con người nơi đây. Hồ Hoàn Kiếm – Hồ Gươm sẽ sống mãi trong tiềm thức của mỗi người dân Hà Nội nói riêng và người dân cả nước nói chung như một biểu tượng thiên liêng về lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc.
Thuyết minh về hồ Gươm – Bài số 4
Hồ Gưom (Hoàn Kiếm) được coi là hòn ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước ngoài gọi là "Lẵng hoa giữa lòng thành phố", nằm lọt giữa lòng Hà Nội. Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới xong đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc lại là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Theo các nhà khoa học hồ là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển dòng như hiện nay. Sự việc sông nước biến thiên ấy diễn ra cách đây vài nghìn năm. Trước đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh. Thế kỉ 15, hồ Lục Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ.
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Tại đây đã có một ngôi đền dựng lên để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ, đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 – 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thuỵ Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843), chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn (Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ, 25 – 55 sau công nguyên bên Trung Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa cử)
Theo sách "Hà Thành linh tích cổ lục" thì ngay từ đời Lê, trên đảo Ngọc Sơn đã có đền thờ Quan Công, người nổi tiếng trung nghĩa đời Tam Quốc (Trung Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh dùng hồ là nơi duyệt thuỷ quân thì đền được coi như một võ miếu. Dân Hà thành đã đem tượng Đức thánh Trần thờ phối hưởng bên cạnh Quan Công. Nhưng "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" lại cho đó là tượng Lê Lai, công thần khai quốc đời Lê đã xả thân cứu chúa.
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng- ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên – Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, một nơi dùng để chơi thuyền mà còn gắn liền với đời sống về nhiều phương diện: đêm giao thừa, người người nô nức du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện nam tín nữ đi lễ các đền chùa lân cận. Các đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên hồ Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng. Ai đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ xen giữa những phượng cháy đỏ rực, cơm nguội chín vàng, những tàng cây ngả xuống, vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc như 19/8 và 2/9.
Những di tích lịch sử độc đáo: tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá… và những công trình kiến trúc hiện đại, mới được xây dựng hoặc tu tạo nhưng luôn đảm bảo kết hợp hài hoà với cảnh quan vốn có quanh hồ. Hồ Gươm với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh bóng nước là hình ảnh của thủ đô Hà Nội trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Vũ Hường tổng hợp