Nghị luận xã hội về lòng nhân ái – Bài số 1
Con người ta được sinh ra, được sống trên đời đã là một hạnh phúc lớn lao, nhưng có lẽ được sống trong lòng của những người khác còn là hạnh phúc lớn lao hơn nữa. Điều em muốn nói tới ở đây chính là cảm giác yêu thương và được yêu thưong. Có lẽ yêu thương chính là hạnh phúc lớn nhất của con người!
Tình yêu thương là mọi thứ tình cảm tốt đẹp mà con người ta dành cho nhau, có tình cảm gia đình, tình cảm bè bạn,… thậm chí là đối với những người ta không hề quen biết. Nó có thể là thứ tình cảm được vun đắp, xây dựng trong một thời gian dài, nhưng cũng có thế chỉ là một niềm thương cảm chợt trào dâng khi ta gặp một hoàn cảnh nào đó. Nhưng dù với bất cứ biểu hiện nào thì tình yêu thương cũng luôn mang lại những điều kì diệu riêng cho cả người cho đi và nhận về nó. Cái hạnh phúc mà tình yêu thương đem lại cho cuộc sống là dành cho cả 2 phía. Người cho đi yêu thương được nhận một cảm giác ngọt ngào, êm dịu và bình yên. Và hầu như là họ cũng sẽ nhận lại được tình thương từ người mình vừa trao tặng. Người được nhận yêu thương thì có thể nhận được rất nhiều. Đối với một đưa trẻ thì đó có thể là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, suối nguồn tươi mát ươm mầm cho một trái tim nhạy cảm. Cũng có thể là sức mạnh cảm hóa, bến bờ quay lại đối với một bước chân lầm lỡ.
Tình yêu thương là những rung động giữa con người với con người, là lực hấp dẫn kéo con người ta xích lại gần nhau, tạo thành khối thống nhất. Nếu cuộc sống không có yêu thương thì mối liên kết sẽ vô cùng lỏng lẻo, có thể đứt gãy bất kì lúc nào. Và sẽ thật là một thảm họa nếu như thế giới ở trong tình trạng ấy. Rất có thể sẽ là chiến tranh, là chết chóc, bởi một khi yêu thương không tồn tại thì lòng nhân đạo có thể bắt nguồn được từ đâu nữa? Khi ấy hạnh phúc sẽ ko thể tồn tại được nữa!
Yêu thương đem lại hạnh phúc cho nhân loại! Vì vậy hãy dành tình thương của mình cho mọi người thật nhiều. Có thể chúng ta sẽ nhận lại được tình thương từ họ, hoặc có thể không, nhưng điều đó không quan trọng, vì chỉ cần yêu thương tồn tại trong ta thì ta đã có được hạnh phúc. Bởi yêu thương chính là hạnh phúc của con người!
Với tuổi trẻ hiện nay trong môi trường toàn cầu hóa giao tiếp con người càng rộng thì lòng yêu thương cần được mở rộng ra hơn, đó là động lực để chúng ta hợp tác cùng nhau nâng cao hiểu biết, tích cực cải thiện cuộc sống con người, chỉ có yêu thương mới xoa dịu những ngăn cách giàu nghèo, những bất đồng nghi kỵ. Tạo ra thế giới hòa bình, hạnh phúc, văn minh và giàu mạnh.
Nghị luận xã hội về lòng nhân ái – Bài số 2
Từ xưa dân tộc việt nam ta đã có truyền thống yêu thương con người,truyền thống ấy được phát huy phát triển nhất là trong thời kì hiện nay.Lòng yêu thương con người,có lòng nhân ái đó chính là bản chất cao đẹp của dân tộc ta,muốn hiểu hêm vấn đề,chúng ta cùng đi vào tìm hiểu. Vậy nhân ái là gì? Nhân ái là tình yêu thương giữa con người với con người. Lòng nhân ái thể hiện ở chỗ biết cho đi mà không suy nghĩ tính toan thiệt hơn, lợi hại cho bản thân mình. Tại sao trong cuộc sống này ta cần lòng nhân ái? Vì khi ta mở rộng lòng mình đồng cảm, yêu thương, ta sẽ chợt thấy mình sung sướng đến dường nào khi thấy người ta an ủi yêu thương được hạnh phúc, ấm no. Cuộc sống là một con đường đầy những khó khăn, trắc trở. Biết bao người hằng ngày phải vật lôn với cuộc sống: những người bán vé số, cụ già ăn xin… Có thể nói, chính lòng nhân ái đã làm cho tâm hồn và trái tim ta được rộng mở. Nhờ đó, ta sẽ thật sự cảm thông, đồng cảm trước những mảnh đời khó khăn, bất hạnh.
Lòng nhân ái chính là chất keo chắc chắn, đính những tâm hồn tróng trải ấy lại với nhau để yêu thương và san sẻ. Ai cũng biết, trong thôn ấp, mỗi người là một cá nhân riêng lẽ, nhưng mối quan hệ tình làng nghiã xóm đã thắt chặt mọi người lại với nhau. Điều đó được thể hiện bằng mối quan tâm tương trợ lẫn nhau mỗi khi tối lửa tắt đèn. Tình cảm yêu thương ấy còn vượt qua giới hạn của luỹ tre làng để đến với mọi nơi trên đất nước. Một hạt gạo, một gói quà, một tấm áo nghĩa tình gửi đến vùng bị thiên tai ẩn chứa biết bao niềm yêu thương, tình thân ái của những con người thấm nhuần đạo lý sống “lá lành đùm lá rách”. Từ thành thị đến thôn quê, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu ta cũng thấy những tấm lòng yêu thương tương trợ như thế.
Tinh thần yêu thương thể hiện rõ nhất khi đất nước bị ngoại bang xâm lược. Miền Nam bước vào cuộc chiến đấu, miền Bắc chung vai tương trợ với khẩu hiệu: “Tất cả vì miền Nam thân yêu”… Có thương yêu nhau ta mới cảm thấy đau đớn xót xa trước cảnh đồng bào bị rên xiết trong xiềng xích gông cùm.
Bên cạnh đó, lòng nhân ái được thể hiện thông qua những câu ca dao tục ngữ chứa đựng bài học làm người: “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”…Đó là những minh chứng hùng hồn, cho thấy lòng nhân ái đã từ lâu hiện hữu trong mỗi chúng ta. Ngược lại với lòng nhân ái là thái độ tự tôn, sự ích kỷ và bất nhân. Họ cả đời chỉ lo nghĩ đến quyền lợi cá nhân mình. Họ có thể sống phè phỡn, xa hoa,… nhưng họ lại không một chút xao động trước nỗi đau của người khác, trước những mảnh đời bất hạnh đang diễn ra xung quanh. Đó là biểu hiện của lối sống ích kỉ nhỏ nhen, đi ngược lại truyền thống đạo lý của dân tộc, đáng cho người đời phê phán.
Nhân ái quả là một phẩm chất đáng quí. Hiểu được giá trị đích thực của lòng nhân ái, mỗi chúng ta cần biết quan tâm, chia sẻ nhau nhiều hơn để cuộc sống này mãi mãi ấm áp tình người.
Nghị luận xã hội về lòng nhân ái – Bài số 3
Nhân ái là nhận biết rằng mọi người đều thực sự thuộc về mình. Lòng nhân ái khai sinh, không phải từ nỗi băn khoăn người khác nghĩ gì về mình, mà từ nhận thức đơn giản rằng, lòng nhân ái tự nó là quà tặng cho mọi người, và nguồn suối ngọt ngào đó ở nơi ta. “Quà tặng phải đưa vào tận con tim chứ không phải chỉ trên đôi tay” (Paul Claudel). Sống với mọi người có nghĩa là trao tặng lòng nhân ái của mình cho họ. Nhờ vậy, đi tới đâu ta cũng dễ cảm thấy tình yêu đang chờ đợi mình, đang chào đón mình. Lòng nhân ái của ta là một khung trời bao la cho phép mình và người khác được sống tự do để thể hiện chính mình mà không phải quá câu nệ, dè dặt hay sợ bị đánh giá. Khi lòng nhân ái thật sự được mở rộng thì ta có thể dung chứa được mọi lối sống, mọi kiểu cách, mọi quan điểm, mọi phê bình… của người khác mà không cảm thấy dị ứng, bực bội hay khó chịu. Trái lại ta còn có khả năng hướng mình và người khác tới một đồng cảm gần gũi hơn, thâm sâu hơn, cho dù bên ngoài có những khác biệt về cách thức thể hiện. Chính lòng nhân ái cho ta ý thức và cảm nhận trong đức tin rằng, chính Chúa vẫn đang tác tạo và làm mới lại mọi sự nơi mọi người.
Với những người có lòng từ ái bao dung thì cả vũ trụ này là quê nhà yêu dấu, và tất cả mọi người dù là những kẻ bệ rạc nhất cũng đều là những người anh em đáng được hưởng tình yêu thương. Không có gì có thể ngăn cản được lòng nhân ái đích thực để làm nên một cuộc sống an vui cho con người. Kiêu căng, ích kỷ, oán ghét, hận thù… cũng sẽ tiêu tan trước sức mạnh của lòng nhân ái.
Con người là cái mình có, thêm cái mình trở nên, cộng với những gì mình sẽ làm. Cái sẽ làm chính là thể hiện lòng nhân ái: điều mà mỗi người đã có tự thâm tâm, để làm cho con người trở nên người hơn. Thể hiện lòng nhân ái là ơn gọi đã được định hướng do công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Con người sẽ không lớn nổi thành người và càng không trở nên con người của Thiên Chúa nếu từ chối phát triển ơn gọi này mỗi ngày cao độ hơn.
Nhìn ngắm Chúa Giêsu thể hiện lòng nhân ái
Khi đọc và suy gẫm Tin Mừng, chúng ta dễ cảm nhận sâu xa lòng nhân ái của Đức Giêsu: Ngài bồng ẳm các em bé vào lòng, chúc lành cho chúng, và Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như chúng (Mc 10, 14). Ngài sống tình nghĩa thâm giao với các bạn hữu của mình, cảm thương bạn mình đến mức độ sa nước mắt (Ga 11, 35). Chính Ngài từng nếm cảm nỗi đói khát, cô đơn và buồn sầu. Ngài là Thiên Chúa và là con người trọn vẹn, nhưng thần tính của Ngài không hề làm giảm sút nhân tính chút nào.
Lòng nhân ái của Đức Giêsu được nhìn thấy rõ nhất nơi tấm lòng trắc ẩn của Ngài. “Trắc ẩn” không chỉ là cảm thương, mà còn là cảm nếm nỗi đau khổ của người khác; là đau cái nỗi đau của họ, khổ cái nỗi khổ của họ. Cũng như nhà thần bí thời Tung Cổ đã nói: “Thiên Chúa đã đưa lưng để hứng trọn lấy những đòn roi đau buốt quất vào chúng ta”.
Đức Giêsu đã cảm nhận cơn đói mệt lã của đám đông đi theo Ngài trong hoang địa (Mc 6, 35). Trái tim trắc ẩn của Ngài đã hoàn toàn đồng cảm và mang lấy nỗi buồn đau thấu tận con tim của người quả phụ đang khóc thương vì mất đưa con trai duy nhất của mình (Lc 7, 11). Người góa phụ này đã không xin Chúa Giêsu làm một phép lạ, nhưng chính Ngài đã quyết định làm thế. Phải chăng Ngài nhìn thấy trước nơi người góa phụ ấy hình ảnh của chính Mẹ yêu dấu của Ngài sẽ đón nhận vào vòng tay mình tấm thi thể tan nát của chính Ngài sau này? Ngài cảm nhận được lòng thống hối của người đàn bà tội lỗi đang sa nước mắt rửa chân Ngài và lấy tóc mà lau chân Ngài: dấu chứng của một trái tim chứa chan tình yêu mến. Lòng trắc ẩn đã thúc đẩy Ngài đi đến gặp gỡ và ngay cả động chạm đến những người mà xã hội liệt vào hạng ô uế không được phép động chạm đến (Mc 1, 14).
Lòng nhân ái của Chúa Giêsu đã làm cho Ngài có thể đi vào trong mối quan hệ với từng người và với tất cả: những người đau ốm và những người khốn khổ, những người nghèo cũng như những kẻ giàu có, những người quyền thế cũng như những người bị áp bức, những người tội lỗi cũng như những người lành thánh. Mặc dù Ngài tiếp xúc với đám đông quần chúng, Ngài vẫn không bao giờ quên các cá nhân và nhu cẩu riêng tư của họ, nên Ngài đã dừng chân lại với anh chàng ăn xin Bartimê (Mc 10, 46). Cả một đám đông chen lấn xô đẩy Ngài, nhưng Ngài vẫn cảm nhận được đức tin của người phụ nữ đang cố kín đáo động chạm đến mép áo Ngài để được chữa lành chứng bệnh băng huyết của chị ( (Mc 5, 30). Ngài đã cảm kích bởi lòng quảng đại của bà góa nghèo dâng cúng hai đồng bạc vào hòm tiền của Đền Thờ, tức trọn số tiền mà bà đang có (Lc 21, 2). Cuối cùng, lòng nhân ái vô độ của Đức Giêsu đã kết hợp muôn người trong hy tế thập giá của Ngài để giao hòa và liên kết tất cả trong một Thần Khí (Ep 2, 14-18), để ban cho họ ơn tái sinh (Rm 7, 4), và sự sống thần linh (Ep 2, 4-6).
Lòng nhân ái trong đời sống Kitô hữu
Là những Kitô hữu, chúng ta không thể vô cảm, vô can, hay thờ ơ lãnh đạm đối với bao nỗi đau buồn thất vọng và những nổ lực đấu tranh của bao con người xung quanh chúng ta. Niềm vui và nỗi khổ của họ phải có một âm vang trong cõi lòng chúng ta. Để nên giống với Đức Kitô, chúng ta cần phải làm triển nở sâu rộng tấm lòng nhân ái và trắc ẩn như Ngài, để biết cảm xúc với người ta, vì người ta, và trong người ta, nhất là những người đau khổ trong thân xác và trong tâm hồn. Để nên giống với Đức Kitô, Giáo hội khuyên chúng ta phải biết cảm nhận “những vui mừng và hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là những người nghèo và những người đau khổ” (GS 1).
Đặc biệt, chúng ta được kêu gọi nên giống Đức Kitô trong tấm lòng và cách thái của Người Samaritanô Nhân Hậu, bởi vì “dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu thuộc về Tin Mừng khổ lụy. Quả thật, dụ ngôn này vạch cho chúng ta thấy mối tương quan giữa chúng ta và những anh chị em đau khổ xung quanh đời mình phải như thế nào”.
Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc được trong khi có biết bao người đang đau khổ. Chỉ có ai quên hạnh phúc của mình để tìm hạnh phúc cho kẻ khác, mới có thể gặp lại hạnh phúc của mình tràn đầy. Hạnh phúc tiềm tàng trong ước mắt của người mà ta đã lau khô, trong nụ cười của người mà ta đã làm tươi nở, trong những kẻ mà ta đã ủi an khích lệ… “Chỉ cuộc đời sống cho người khác mới là cuộc đời đáng sống” (Einstein). Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho. Trong khi đó, sống tình thương là qui luật tối thượng, là sứ mạng Tin Mừng của Kitô hữu. Sứ mạng đó là trở nên gần gũi thân thiết với những người “lân cận” để thấu hiểu nỗi niềm và biết cách để sống với họ và cho họ.
Chúng ta không giống với Đức Kitô ở chỗ mình không có quyền năng để chữa trị các anh chị em đau yếu, tật nguyền. Có thể chúng ta không xóa được nỗi thống khổ của người ta, nhưng chính sự hiện diện của chúng ta trong nỗi thống khổ của họ sẽ đem lại cho họ niềm hy vọng và sự chữa trị. Chúng ta không thể bù đắp cho họ hết những thiếu thốn và mất mát do những bất công xã hội gây ra, nhưng sự chia sẻ của chúng ta sẽ làm vơi đi những tủi nhục và cay đắng trong đời họ. Chúng ta không thể tạo cho họ một tâm hồn tươi mới, nhưng sự đồng hành gần gũi với họ trong cuộc sống sẽ làm cho họ phai nhạt dần những mặc cảm, u uất, có khi là những căm phẩn, hận thù. Khi sống như vậy, chính chúng ta cũng nhận được sự nâng đỡ lớn lao từ nơi họ, đồng thời tìm thấy niềm vui tinh thần và nguồn nghị lực dâng cao từ chính lòng nhân ái của mình.
Suốt đời chúng ta phải theo đuổi cái cốt yếu là đem lòng nhân hậu của Thiên Chúa vào các tương quan gia đình và láng giềng, phục vụ cho công lý nơi đời sống xã hội và nghề nghiệp. Mỗi người chúng ta là nhịp đập của trái tim Chúa Giêsu, nên chúng ta phải sống thân thiết làm một với Ngài, và cũng để từ đó phát xuất chính lòng nhân ái của Ngài, chứ không phải chỉ là lòng nhân ái thuần túy của trái tim nhân loại.
Lòng nhân ái là thập giá trổ hoa
Cánh hoa của lòng nhân ái chỉ nở ra trên cậy thập giá, là kết tinh của những chuỗi ngày cắt tỉa có khi rất trơ trọi và thê lương, như chết đi nếp sống cũ để lối sống mới có thể thành hình. Thể hiện lòng nhân ái là phải chấp nhận đau thương, chấp nhận từ bỏ mình để có thể trao ban chính mình. Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Trao ban không có nghĩa là mất đi, nhưng đó là phương thức tốt nhất để giữ lại những gì mình đã cho đi, để trở nên chính mình hơn. Những gì mình thực sự sở hữu chính là những cái mình đã cho đi, mà sở hữu lớn lao nhất là chính sự sống mình. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39).
Như vậy, tiến bước mở rộng lòng nhân ái cũng chính là tiến bước trên con đường thập giá để hiến thân, cùng với Chúa Giêsu để cứu độ. Đó là niềm vinh hạnh của mỗi người chúng ta được dự phần với Chúa để mang lại bình an và hạnh phúc cho anh em mình, bởi vì chỉ có hy sinh mới đánh đổi được tình yêu; chỉ có đau thương mới mang lại hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, tha nhân cũng chính là bản thân con trong liên hệ thể chất lẫn tinh thần, trong tâm hồn cũng như nơi thân xác, và cùng được cứu chuộc bởi giá máu của Chúa. Chính Chúa đã thông phần sự sống cho chúng con để chúng con cũng biết thông chia sự sống cho nhau bằng tấm lòng nhân ái bao la như chính Chúa. Con chỉ kiện toàn được bản thân mình trong mối liên đới với thân phận của mọi người, từ những trắc trở lo âu hay những vui mừng và hy vọng của họ; từ những thất bại chán chường hay những thành công phấn khởi của họ; từ những sa lầy đau thương tội lỗi hay những nổ lực vươn lên rất can đảm và lành thánh của họ… Nhìn lại, lòng nhân ái của mỗi người chúng con còn bị truy cản bởi quá nhiều chướng ngại: tham, sân, si… của những chấp nhất và thiển cận, của những nông nỗi và nhẹ dạ dễ bị lung lạc bởi dư luận, thành kiến tạo nên ác cảm… của cả những tranh giành ảnh hưởng và danh giá bề ngoài. Xin cho mỗi người chúng con thật sự là nhịp đập của trái tim Chúa, biết cùng rung cảm chân tình và sâu xa về từng hiện trạng trong đời sống của nhau. Amen.
Nghị luận xã hội về lòng nhân ái – Bài số 4
Con người sinh ra có một đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, một bộ óc để suy nghĩ….Và có một trái tim để yêu thương. Con người biết yêu thương quan tâm sẻ chia với mọi người là con người có lòng nhân ái Steve Godier đã khẳng định: “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Nhân ái là cái gốc của đạo đức con người, là nền tảng của luân lí xã hội. Không có tình thương con người chỉ là một con vật. Nhà văn Nam Cao trong tác phẩm “Đời thừa” đã khẳng định: “Tình thương là lẽ sống, là tiêu chuẩn làm người lớn nhất. Một con người có lòng nhân ái là phải biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc những người thân yêu nhất của mình”.
Đó là cha mẹ người cho ta cuộc sống, cho ta được biết thở bầu không khí trong lành, cho ta dòng sữa ngọt ngào với tình thương không bao giờ vơi cạn. Đó là ông bà là anh em ruột thịt, là bạn bè, bà con lối xóm,…..Biết yêu thương mình, yêu thương những người thân yêu, yêu đồng bào chung một bọc, yêu thương đồng loại đó chính là biểu hiện của tấm lòng nhân ái. Tinh yêu thương ấy không chỉ biểu hiện ở tấm lòng, lời nói mà còn những hành động cụ thể: Một tấm áo gửi đồng bào miền Trung lũ lụt, một hành động giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn, một mùa hè xanh tình nguyện, một giọt máu cứu giúp người đang lâm trọng bệnh, một cái nắm tay, một ánh mắt đồng cảm sẻ chia,….Đó là những nghĩa cử bình thường mà cao đẹp của những tấm lòng nhân ái. Biểu hiện cao nhất của tấm lòng nhân ái chính là đức hi sinh. Những người chiến sĩ như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọi người. Những bà mẹ Việt Nam tảo tần lặng lẽ hi sinh cuộc đời vì chồng con, vì đất nước. Người sinh viên lao mình xuống dòng nước lũ cứu những em nhỏ,…Họ đã quên cả bản thân mình vì người khác. Họ là những con người dũng cảm, những trái tim yêu thương.
Lòng nhân ái đã trở thành nét đẹp truyền thống Việt Nam. Tinh thần “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” là đạo lí ngàn đời của dân tộc. Nhũng cái Tết của người nghèo, những mái ấm tình thương, nối vòng tay lớn, chung một trái tim, đã làm ấm lòng những người con đất Việt. Những ngôi nhà được cất lên, những mái trường được dựng lại, bình yên trở về sau nhũng bão giông nở nụ cười trên môi những đứa trẻ tật nguyền bất hạnh, những con người lầm lạc tìm thấy niềm tin ở sự khoan dung của cộng đồng….
Ngạn ngữ có câu: “Lòng nhân ái là vũ khí cao thương nhất để khắc phục kẻ thù”. Lòng nhân ái là sức mạnh bởi nó làm cho sức mạnh trở nên vô nghĩa. Đất nước ta đã từng đi qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, dấu ấn để lại trong những người lính không chỉ là tinh thần chiến đấu kiên cường mà còn là những con người Việt Nam nhân ái, bao dung.
Lòng nhân ái không phải là những gì cao đạo, xa vời, càng không phải lòng thương hại, sự bố thí. Lòng nhân ái có thể là một tình yêu, một lòng tốt bình thường nhưng có sức mạnh lớn lao có thể làm biến cải con người. Một bát cháo xoàng xĩnh với tình yêu thương thô mộc của Thị Nở đã đánh thức lương tâm của Chí Phèo, kéo một con người trở về cuộc sống của người lương thiện. Kiệt tác của bác Bomen trong “Chiếc lá cuối cùng” của Ohenri được vẽ bằng trái tim yêu thương và lòng nhân ái cao cả đã có sức mạnh kì diệu cứu cô bé Gionxi nằm trên giường bệnh trong cơn tuyệt vọng. Lòng nhân ái có thể làm tăng cuộc sống tinh thần của con người, làm phong phú tâm hồn người cho đi. Đừng bao giờ nuối tiếc vì cho đi tình yêu chính là cách nhân lên tình yêu. Cho đi người ta sẽ nhân lại được rất nhiều. Nhân ái với mọi người ta thấy tâm hồn mình thật giàu có.
“Lòng nhân ái mang một sức mạnh lớn lao làm cho cuộc sống nhân loại trở lên tốt lành”. Ngạn ngữ Nga đã từng nói như vậy bởi “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình yêu”. Nếu không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ trở thành địa ngục, Trái Đất sẽ trở thành nấm mồ lạnh giá và dẫu khi ấy trái tim ta chưa ngừng đập sống cũng chỉ là vô nghĩa. Nhà sư phạm người Nga XuKhôm Linxki đã nói: “Nếu những đứa trẻ dửng dưng với những điều đang xảy ra trong trái tim người bạn, bố mẹ hoặc bất cứ người đồng bào nào em gặp. Nếu những đứa trẻ không biết đọc trong ánh mắt người khác trong trái tim người đó sẽ không bao giờ trở thành con người chân chính”. Bài học làm người đầu tiên là bài học về lòng nhân ái, sự can đảm, sẻ chia.
Bạn ơi đừng bao giờ ngừng yêu thương. Nêm yêu thương đong đầy cho tất cả, ta sẽ thấy vị ngọt mát cuộc đời.
Vũ Hường tổng hợp