Soạn bài chị em Thúy Kiều – Bài số 1
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tìm hiểu kết cấu đoạn trích:
– Bốn câu thơ đầu: giới thiệu về khái quát về hai chị em Thuý Kiều;
– Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân;
– Mười sáu câu thơ còn lại: vẻ đẹp của Thuý Kiều.
Trình tự miêu tả các nhân vật theo kết cấu đoạn trích là miêu tả từ khái quát đến cụ thể.
2. Với Thuý Vân tác giả đã hình ảnh ước lệ (trăng, cười, ngọc, mây, tuyết), để miêu tả nhan sắc và đức hạnh của nàng trong bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Dưới ngòi bút của tác giả, Thuý Vân hiện lên với vẻ đẹp sang trọng, quý phái, đầy đặn, nở nang… về nhan sắc; đoan trang, trung thực, phúc hậu… về tính cách. Hình ảnh chân dung, tính cách còn có tác dụng gợi tả số phận: cuộc đời bình lặng, yên ổn.
3. Thúy Vân đã đẹp thế, Thúy Kiều càng nổi bật hơn, vẻ đẹp ấy được nói đến ở những câu thơ giới thiệu khái quát mở đầu đoạn:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Nguyễn Du đã không miêu tả vẻ đẹp của Kiều kĩ như Thúy Vân, nhưng vẫn làm người đọc nhận thấy vẻ đẹp của giai nhân tuyệt thế. Đặc biệt là việc gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: “làn thu thuỷ”; đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người.
4. Kiều không chỉ đẹp mà còn hội tụ đầy đủ mọi tài năng theo quan niệm của tư tưởng phong kiến: cầm – kì – thi – hoạ, đặc biệt là tài đánh đàn (Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương) và gợi tả về tính cách đa sầu, đa cảm của Kiều qua khúc nhạc nàng tự sáng tác – một thiên “bạc mệnh”. Qua cách miêu tả của tác giả, những nét riêng về tài và sắc của Thuý Kiều gợi ra những dự cảm về số phận nghiệt ngã, éo le.
5. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu xoay quanh miêu tả tài năng nghệ thuật của Kiều. Vẻ đẹp của Thuý Vân được tác giả chú ý về nhan sắc, tính tình còn vẻ đẹp của Thuý Kiều được gợi tả cả về nhan sắc, tài trí, và tâm hồn. Tác giả đã tả Thuý Vân trước như để tạo ra một phông nền làm nổi bật chân dung của Kiều.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Bằng ngòi bút tài hoa của mình Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung được những chuẩn mực về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội xưa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong của văn học trung đại.
Tác giả vừa miêu tả vẻ đẹp, vừa cho người đọc thấy được số phận đã được dự báo của từng người, điều này cho thấy khả năng miêu tả nhân vật khá sắc sảo của ông.
Soạn bài chị em Thúy Kiều – Bài số 2
I. Tìm hiểu chung:
1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
2. Kết cấu ( bố cục) đoạn trích:
Câu hỏi 1,sgk,trang 83: Hãy tìm hiểu kết cấu của đoạn trích và nhận xét kết cấu ấy có liên quan như thế nào với trình tự miêu tả nhân vật của tác giả.
=> Trả lời:
* Đoạn “Chị em Thúy Kiều” có kết cấu:
– Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.
– Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.
– Mười hai câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều
– Bốn câu cuối: khái quát chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều.
* Kết cấu của đoạn trích cho thấy trình tự miêu tả nhân vật của tác giả:
+ Bốn câu đầu khái quát được vẻ đẹp chung ( mai cốt cách, tuyết tinh thần, mười phân vẹn mười ) và vẻ đẹp riêng ( mỗi người một vẻ ) của từng người. Sau đó, tác giả mới đi sâu gợi tả vẻ đẹp của từng nhân vật.
+ Bốn tiếp khắc họa rõ hơn vẻ đẹp của Thúy Vân, từ khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói, đều nhằm thể hiện vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ.
* Bức chân dung Thúy Vân được gợi tả trước, có tác dụng làm nền để nổi bật lên vẻ đẹp của bức chân dung Thúy Kiều trong mười hai câu thơ tiếp theo.
+ Mười hai câu thơ tiếp khắc họa vẻ đẹp Thúy Kiều với cả sắc, tài, tình. Kiều là một tuyệt thế giai nhân “nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” về tâm hồn. Vẻ đẹp ấy thể hiện tập trung ở đôi mắt: “Làn thu thủy nét xuân sơn”. Tài năng của Kiều đạt tới mức lí tưởng, gồm cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), họa (vẽ).
+ Bốn câu cuối khái quát cuộc sống phong lưu, nền nếp, đức hạnh, trẻ trung của hai chị em Thúy Kiều.
* Một kết cấu như trên vừa chặt chẽ, hợp lí, vừa góp phần làm nổi bật vẻ đẹp chung và nhất là vẻ đẹp riêng của hai chị em Thúy Kiều.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều:
a. Giới thiệu khái quát nhân vật:
– Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giời thiệu cổ điển, trang trọng rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
– Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em trong một nhận xét mang tính chất lí tưởng hóa, tuyệt đối hóa ( đẹp một cách hoàn thiện):
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”.
-> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
b. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
– Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân: một vẻ đẹp cao sang, quí phái.
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
-> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang, thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.
-> Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Cũng là hương sắc của tạo hóa, báu vật của nhân gian. -> Dự báo về một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
c. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
* Sắc:
– Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng”đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ: “Làn thu thủy nét xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ.
– Vẻ đẹp của Kiều khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”, nước phải nghiêng, thành phải đổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy; tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người. Vẻ đẹp ấy như tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý – tài và tình rất đặc biệt của nàng.
* Tài:
– Trí tuệ thông minh tuyệt đối
– Kiều là người con gái đa tài mà tài nào cũng đạt đến độ hoàn thiện, xuất chúng: đủ cả cầm, kì, thi, họa.
– Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả. Nàng đã soạn riêng một khúc bạc mênh mà ai nghe cũng não lòng. Khúc nhạc thể hiện tâm hồn,tài năng, trái tim đa sầu đa cảm.
=> Chân dung Thúy Kiều mang tính cách số phận. Ngòi bút Nguyễn Du nhuốm màu định mệnh. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
-> Cuộc đời của nàng sẽ gặp nhiều éo le, đau khổ.
d. Nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều.
– Thúy Vân, Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chỉ nhan sắc tuyệt vời mà còn đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi “cài trâm, búi tóc” nhưng hai chị em vẫn giữ gìn nề nếp, gia phong:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
2. Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích:
– Ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị, phẩm giá của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh;qua đó, dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Sự ngưỡng mộ, ngợi ca người phụ nữ trong xã hội “trọng nam khinh nữ” chính là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân văn trong ngòi bút Nguyễn Du.
III. Tổng kết:Ghi nhớ, sách giáo khoa, trang 83.
IV. Luyện tập:
Câu 1:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy,nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm,liễu hờn kém xanh”
( “Truyện Kiều”,Nguyễn Du).
a, Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.
b,Viết một đoạn văn ( tối đa 7 câu) phân tích hiệu quả của một biện pháp tu từ, trong đó có sử dụng câu ghép đẳng lập.
Câu 2: Cho câu thơ sau:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà”
a, Hãy chép chính xác ba câu thơ tiếp theo miêu tả sắc đẹp của Thúy Kiều. Cho biết tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật gì để miêu tả sắc đẹp ấy.
b, Cách nói “làn thu thủy”.”nét xuân sơn” dùng biện pháp tu từ ẩn dụ hay hoán dụ? Vì sao? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.
c, Nói: khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dự báo trước cuộc đời và số phận của nàng có đúng không? Hãy làm rõ ý kiến của em.
Câu 3: Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện cảm hứng nhân đạo nào của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”?
A – Thương cảm trước bi kịch của con người
B – Lên án tố cáo tội các những thế lực xấu xa, tàn bạo
C – Trân trọng, đề cao vẻ đẹp con người
D – Khát vọng công lí, chính nghĩa.
Soạn bài chị em Thúy Kiều – Bài số 3
Câu 1:
Tìm hiểu kết cấu đoạn trích:
Bốn câu thơ đầu: giới thiệu về khái quát về hai chị em Thuý Kiều.
Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân.
Mười sáu câu thơ còn lại: vẻ đẹp của Thuý Kiều.
Trình tự miêu tả các nhân vật theo kết cấu đoạn trích là miêu tả từ khái quát đến cụ thể.
Câu 2:
Nét riêng về nhan sắc và tính cách của Thuý Vân được gợi tả trong bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Tác giả đã dùng những hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ để gợi tả vẻ đẹp ấy. Đó là những hình ảnh quá quen thuộc trong văn học trung đại: khuôn mặt tròn trịa đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong veo như ngọc, mái tóc đen óng ả tựa mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết… Đó là vẻ đẹp phúc hậu, quý phái của người thiếu nữ.
Vẻ đẹp tạo sự hòa hợp êm đềm với thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Chân dung của Thúy Vân báo hiệu một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ sau này.
Câu 3:
Nhan sắc của Thuý Kiều được gợi tả bằng các hình ảnh mang tính ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Vẻ riêng của Thuý Kiều được nói đến ở những câu thơ giới thiệu khái quát mở đầu đoạn:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
"sắc sảo" và "mặn mà" đều có tác dụng vừa gợi tả nhan sắc, vừa gợi tả tính cách, tài trí. Về nhan sắc, mặc dù không gợi tả cụ thể như khi tả Thuý Vân, nhưng qua những hình ảnh đậm màu sắc tượng trưng, ước lệ, tác giả đã tạo được ấn tượng về một vẻ đẹp của giai nhân tuyệt thế. Đặc biệt là việc gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: "làn thu thuỷ"; đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người.
Câu 4:
Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc thế nhưng khi tả Thúy Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để gợi tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thậm mỹ phong kiến gồm đủ cả cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu đặt biệt, vượt lên trên mọi người. Cực tả cái tài của Kiều cũng là đê gợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn "bạc mệnh" mà Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc, tài, tình. Tác giả dùng thành ngữ có nguồn gốc từ thi liệu Hán học "nghiêng nước nghiêng thành" (người đẹp nhìn một lần nghiêng thành người lại nhìn lần nữa nghiêng nước người) để cực tả giai nhân.
Câu 5:
Trong hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều, bức chân dung Thuý Kiều nổi bật hơn. Điều này phù hợp với dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sáng tạo Truyện Kiều: toàn bộ tác phẩm tập trung xoay quanh câu chuyện về cuộc đời đầy đau khổ của nàng Kiều. Điều này thể hiện ngay ở sự chênh lệch về số lượng câu thơ dành cho việc miêu tả hai nhân vật (4/12). Vẻ đẹp của Thuý Vân được gợi tả về nhan sắc, tính tình còn vẻ đẹp của Thuý Kiều được gợi tả cả về nhan sắc, tài trí, và tâm hồn. Mặc dù Thuý Vân là em nhưng lại được tả trước là vì tác giả muốn tạo ra một phông nền làm nổi bật chân dung của Kiều.
Câu 6:
Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, thì bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn. Chân dung Thúy Vân được miêu tả trước để làm nền, tạo vẻ nổi bật của chân dung Thúy Kiều sau đó. Nguyễn Du dành bốn câu thơ để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới 12 câu thơ đề cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng và tâm hồn.
Soạn bài chị em Thúy Kiều – Bài số 4
I. Vị trí đoạn trích
Đoạn trích thuộc phần mở đầu truyện Kiều, giới thiệu gia đình Kiều là gia đình bậc trung, có ba người con. Con trai là Vương Quan và hai cô con gái là Chị em Thúy Kiều. Bốn câu trước đoạn trích này nói về gia đình họ Vương và con trai út Vương Quan). Từ câu 15 đến câu 38 (24 câu) là đoạn trích Chị em Thúy Kiều nói về Thúy Vân, Thúy Kiều.
II. Bố cục
1. Bốn câu đầu: Khái quát về ngoại hình và cốt cách của hai chị em Thúy Kiều.
2. Bồn câu tiếp: Vẻ đẹp của Thúy Vân.
3. Mười sáu câu còn lại: Vẻ đẹp của Thúy Kiều
III. Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. Đoạn trích có một kết cấu chặt chẽ thể hiện rõ ràng trình tự miêu tả nhân vật của tác giả.
– Giới thiệu khái quát.
– Tả Thúy Vân làm nền để tả Thúy Kiều.
– Cực tả tài sắc vẹn toàn, hiếm có của Thúy Kiều.
Câu 2. Vẻ đẹp của Thúy Vân
Trước tiên, tác giả giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều. Chỉ với một câu thơ Mai cốt cách, tuyết tinh thần ông đã khái quát được vẻ đẹp chung ai cũng toàn vẹn hoàn thiện, hoàn mĩ (mười phân vẹn mười) tuy là mỗi người có một vẻ đẹp riêng (mỗi người một vẻ).
Để làm công việc đó, tác giả dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên (mây, tuyết) làm chuẩn mực để gián tiếp so sánh với sắc đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
Bốn câu tiếp theo, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Ngòi bút thơ của Nguyễn Du làm hiện lên từ khuôn mặt, nét mày, màu da, mái tóc đến nụ cười một cô gái xinh đẹp, thùy mị, đoan trang, phúc hậu tròn trịa và khiêm nhường. Biện pháp tu từ ẩn dụ, ước lệ đặc biệt là các từ trang trọng, đầy đặn, đoan trang, thua, nhường đã phác họa được vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân và nhất là để ngầm dự báo một tương lai sáng sủa của nàng.
Câu 3. Vẻ đẹp của Thúy Kiều
Tả em trước, tả chị sau, Nguyễn Du có dụng ý mượn tài sắc Thúy Vân làm điểm tựa đòn bẩy tài sắc Thúy Kiều lên đến chỗ tuyệt vời. So với em, chị đều hơn cả mọi phần cả sắc lẫn tài.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều ẩn chứa trong đôi mắt.
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Ánh mắt trong xanh như làn nước mùa thu. Lông mày xinh tươi như vẻ núi mùa xuân. Nhan sắc đó cho hoa liễu phải hờn ghen.
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, vẻ đẹp khác phải đố kị hoa ghen, liễu hờn ngầm dự báo số phận nàng sẽ có đau khổ.
Không chỉ có thừa nhan sắc, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và tài hoa rất mực:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Đủ tài cầm kì thi họa, Kiều còn đánh đàn giỏi mà tuyệt xảo lại là khúc Bạc mệnh mà nàng đã tự soạn ra:
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Bằng lối tư từ ẩn dụ, ước lệ, thậm xưng, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tuyệt tác về sắc đẹp lộng lẫy diệu kì của Thúy Kiều. Vẻ đẹp đó dự báo tương lai của một người con gái này sẽ không bình yêu như Thúy Vân em nàng.
Tác giả chỉ dành bốn câu để Thúy Vân so với mười hai câu sau đó để cực tả vẻ đẹp Thúy Kiều. Tả Thúy Vân chủ yếu tác giả tả ngoại hình. Còn tả Thúy Kiều, ông tả cả sắc, tài và tình đầy đủ.
Vũ Hường tổng hợp